Dương trạch tam yếu

Dương trạch tam yếu là nhà ở dương thế có ba chỗ chính yếu đó là cửa cái, chủ-phòng và bếp. Nói tắt là cửa phòng và bếp.

Mồ mả của người chết thuộc âm cơ có ảnh hưởng tốt xấu cho cả dòng họ. Nhà ở của người đang sống trên dương thế gọi là dương trạch cũmg vậy, cũng ảnh hưởng lớn lao tới gia trưởng, liên hệ tới vợ con, với tất cả thân thuộc trong nhà.

Ví dụ như trong một quốc gia gốm nhiều tỉnh, quận, xã… phải được lập dựng ở những nơi thuận tiện, và tại mỗi cơ quan đó phải được cự trị bởi các bậc nhân tài có đức hạnh thì guồng máy chính trị mới thông đạt rồi quốc gia mới giàu mạnh, mới hưng lên được. Cũng như vậy tong một ngôi nhà gồm cửa cái, chủ phòng và bếp là ba chỗ chính yếu rất quan trong cần được đặt tại các cung vị tốt thì nhà mới hưng phát, người trong nhà mới sinh sống yên ổn, giàu sang. Trái lại đặt tại những cung vị xấu thì nhà cửa sẽ suy đồi, con người sẽ sa sút, bệnh hoạn nghèo túng. Rất vô ích mà đổ thừa là không biết.

Luật thiên nhiên của tạo hóa không thiên vị người sang hay hèn, thuộc Đạo hay giống dân nào. Hễ ai đốt đuốc đi trong mưa ắt đuốc sẽ tắt, ai bắn trúng chim sẽ được thịt. Nước gió xuôi tất thuyền sẽ chèo mau tới mà dễ, nước gió ngược tất thuyền chèo đi lâu mà hay va chạm. “Thuận thiên gia tồn, nghịch thiên gia vong” là như vậy.

Nhưng chúng ta cũng nên đặt nghi vấn để làm sáng tỏ môn Bá trạch: Tại sao có những người ở ngôi nhà hung hại (cửc, phòng, bếp đặt cung vị xấu) mà vẫn thịnh vượng, giàu sang? lại có những ngôi nhà kiết lợi (Cửa, phòng, bếp đặt cung vị tốt) mà vẫn không phát đạt – Sự thật có nhiều trường hợp như vậy, song chẳng phải do lý ấy mà môn bát trạch vô dụng, không đúng. Vì nơi đây chỉ luận riêng môn Bát trạch thuộc về phần địa lợi mà thôi. Ngoài phần địa lợi, chúng ta chưa luận đến can số tức là số phận và thời kỳ hung hại đềi là yếu tố quan trọng của sự thịnh suy hy giàu nghèo. Huống chi còn những dữ kiện khác nữa như: Người đạo đức khác người hung ác, người siêng năng khác với người biếng nhác, phóng túng…..

Kết luận khái quát: Ngôi nhà kiết lợi hay ngôi nhà hung hại tất nhiên phải có ảnh hưởng tốt xấu tùy theo mnỗi con người như trên đã phân biệt. Đại khái ở ngôi nhà kiết lợi người có can số nghèo hèn hoặc vận đang suy cũng sẽ đủ ăn, người có can số tầm thường hoặc thời vận chưa thông sẽ được khá lên và dư ăn dư để, người có căn số giàu nhỏ hoặc thời vận thông đạt vừa sẽ phát lên giàu có lớn . . . Và tất cả những người đó đều có cuộc sống yên lành, ít bệnh hoạn, ít rủi ro. ít tai nạn, v ...v.... Đại khái ở ngôi nhà hung hại: Người có căn số giàu lớn hoặc đang thời kỳ thông đạt lớn cũng sẽ bị giảm bớt mà chỉ còn giàu có trung bình, người có căn số giàu nhỏ hoặc đang thời kỳ thông đạt vừa tất sẽ chỉ còn đủ ăn, người có căn số vừa đủ ăn hoặc đan thời kỳ không thông đạt ắt sẽ suy vi . . và tất cả những người đó đều có một cuộc sống khó khăn, hay bệnh hoạn, hay gặp rủi ro và tai nạn, v..v..

Tôi vì ba lẽ sau đây mà soạn lục bộ Dương trạch tam yếu này:

1. Một là tôi cố ý mong cho người dùng môn Bát trạch có một lối qui định và sử dụng nó một cách chính xác, có những phương pháp tính toán tường tận cùng sự chỉ dẫn đầy đủ.

2. Hai là vì tôi biết chắc chắn trăm phần trăm có sự ứng nghiệm hưng suy của môn bát trạch, sau nhiều năm đã dùng cho mình và đã giúp nhiều gia đình khác

3. Sau hết, còn một điều này nữa, chúng ta cũng nên biết, cổ nhân đã dạy: Muốn thành công viên mãn một sự việc nào, cần đủ ba điều thiết yếu: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Như chỉ luận trong phạm vi nhà cửa thì Thiên thời là chọn năm, tháng, ngày, giờ tốt để khởi công xây dựng hay sửa chữa nhà cửa; Địa lợi là chọn phương hướng tốt để đặt nhà và cung vị tốt để an trí Cửa - cái, Chủ - phòng và Bếp; Nhân hòa là được lòng người như: hợp với lệ luật, hòa với thân nhân và lân nhân

Tóm lại, trong muôn điều, cái biết là hơn tất cả. Biết cái dở để tránh và biết cái hay để làm theo, thật không còn chi bằng. Vậy nay có bộ Dương - trạch tam yếu, chúng ta hãy cùng học khảo cho biết rồi thực hành để tránh cái dở mà theo điều hay, tức là để khỏi ở một ngôi nhà hung hại mà được ở ngôi nhà kiết lợi. Đó chính là một cách xu kiết tị hung, tức theo lành mà lánh dữ vậy!




THIÊN I
DẪN LỘ


Dẫn lộ là dẫn đường. Thiên Dẫn Lộ gồm 25 bài, tuy chưng dùng vào việc xây cất hoặc sửa chữa nhà cửa, nhưng rất cần phải am hiểu trước, bằng không sẽ gặp khó khăn và bỡ ngỡ như người mới đến chốn xa lạ mà không được ai chỉ dẫn đường đi nước bước khi khảo cứu những thiên kế tiếp. Mặc dù ở những thiên kế tiếp vẫn có sự dẫn giải kỹ càng, vẫn có lắm chỗ đã nói rồi còn lập lại hoặc nói lại tương tự hoặc tóm tắt, hoặc thay đổi câu chữ .. nhưng đó chẳng qua vì ngại lời văn chưa sáng nghĩa thì có lời văn khác bổ túc. Tuy nhiên, chẳng thể nào để thiếu, thiên dẫn lộ cần thiết như cái địa bàn chỉ hướng.




Bài 1 - TỨ TRẠCH

Dương trạch tam yếu phân loại nhà ở làm 4 loại: Tịnh trạch, Động trạch, Biến trạch, Hoá trạch.
1) TỊNH TRẠCH: Nhà xây chỉ có một phòng, trong nhà không có tường ngăn.
2) ĐỘNG TRẠCH: Là từ mặt tiền tới mặt hậu được chia làm từ 2 ngăn tới 5 ngăn bởi tường vách chặn ngang có chừa cửa ra vào. Tủ, bình phong và màn trướng không kể là phòng, ngăn.
3) BIẾN TRẠCH: Là nhà từ mặt tiền tới mặt hậu được phân làm từ 6 ngăn tới 10 ngăn bởi tường vách chặn ngang có chừa cửa ra vào. Tủ, bình phong, màn trướng không được kể là phòng, ngăn.
4) HOÁ TRẠCH: Là nhà từ mặt tiền tới mặt hậu được phân làm từ 11 ngăn tới 15 ngăn bởi những tường vách chặn ngang có chừa cửa ra vào. Tủ, bình phong, màn giăng không được kể là tường vách.



BÀI 2: ĐÔNG TÂY TRẠCH, TRÙ, MỆNH.


- Năm chữ tựa đề trên là nói: gồm: Đông tứ trạch, Tây tứ trạch, Đông trù, tây trù, Đông Mệnh, Tây Mệnh.

Trạch là nhà. Trù là táo, bếp. Mệnh là mệnh cung của chủ nhà tính theo tam nguyên.

+ Đông Tây: Môn Bát trạch dùng 8 cung nhưng chia làm 2 phe phía: Đông và Tây. Đông thuộc Mộc, Tây thuộc Kim. Đông cũng gọi là Đông tứ cung vì nó gồm 4 cung: Khảm, Ly, Chấn, Tốn. Chấn Tốn thuộc Mộc về Đông đã đành, nhưng thêm Khảm Ly nữa vì Khảm Thuỷ với Mộc tương sanh và Ly Hoả với Mộc cũng tương sanh. Bốn cung này đồng một phe phía với nhau cho nên gặp nhau tất hỗ biến thành những du niên tốt (Xem cách Bát biến du niên bài 8).

Tây cũng gọi là Tây tứ cung vì nó gồm 4 cung: Kiền, Khôn, Cấn, Đoài. Kiền Đoài thuộc Kim đã đành, nhưng có thêm Khôn Cấn nữa vì Khôn Cấn Thổ với Kim là tương sanh. Bốn cung này đồng một phe phía với nhau cho nên gặp nhau tất hỗ biến được những kiết du niên tốt (xem bài 8).

Nếu Đông tứ cung gặp Tây tứ cung hỗ biến với nhau tất gặp những hung du niên, xấu – vì hai phe khác nhau, phe Đông Mộc với phe Tây Kim tương khắc (xem bài 8).

- Chú ý: Tây tứ cung là Kiền Khôn Cấn Đoài so với nhau đều đặng tương sanh hay tỵ hoà chớ không có tương khắc. Nhưng Đông từ cung là Khảm Ly Chấn Tốn so – đối với nhau đa số cũng tương sanh và tỵ hoà, song có Khảm với Ly là tương khắc, mặc dầu hỗ biến cũng được du niên tốt vậy. Đó là chỗ sai biệt vậy. – (Kiết du niên là du niên tốt gồm có: Sinh khí, Diên niên, Thiên y và Phục vị. Hung du niên gọi là du niên xấu gồm có: Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Lục sát, Hoạ hại).

+ Đông tứ trạch: là nhà có Cửa cái và Chủ phòng hay Sơn chủ đều ở trong vòng 4 cung Khảm Ly Chấn Tốn thì nhà ở tất tốt vì cùng một phe với nhau. Nếu có lộn Tây tứ cung thì gọi là Đông Tây tương hỗn (hỗn loạn) nhà ở tất xấu.

+ Tây tứ trạch: là nhà có Cửa cái và Chủ phòng hay Sơn chủ đều ở trong vòng 4 cung Kiền Khôn Cấn Đoài thì nhà ở tất tốt vì cùng một phe với nhau. Nếu có lộn Đông tứ cung vào thì gọi là Đông Tây tương hỗn, nhà ở tất xấu.

+ Đông trù: là Bếp đông. Phàm Bếp đặt tại 1 trong 4 cung Khảm Ly Chấn Tốn thì gọi là Đông trù. Đông trù đem thịnh vượng cho Đông tứ trạch nhưng làm suy bại Tây tứ trạch.

+ Tây trù: là Bếp Tây. Phàm bếp đặt tại một trong 4 cung Kiền Khôn Cấn Đoài thì gọi là tây trù. Tây trù làm thịnh vượng cho Tây tứ trạch, nhưng gây suy bại cho Đông tứ trạch.

+ Đông mệnh: Mệnh của chủ nhà là 1 trong 4 cung Khảm Ly Chấn Tốn thì gọi là Đông Mệnh (xem cách tính ở bài 21). Đông Mệnh nên ở nhà Đông tứ trạch mới tốt, bằng ở nhà Tây tứ trạch không hợp, bớt tốt.

Tóm lại:
- Ở Đông tứ trạch phải dùng Đông trù mới tốt. Nếu chủ nhà thuộc Đông mệnh nữa là nhà trọn tốt, bằng chủ nhà thuộc Tây mệnh thì bớt tốt.

- Ở Tây tứ trạch phải dùng Tây trù mới tốt. Nếu chủ nhà thuộc Tây mệnh nữa là nhà trọng tốt, bằng chủ nhà Đông mệnh thì bớt tốt.

- Ở Đông tứ trạch mà dùng Tây trù là cái nhà bất lợi, không thể thịnh vượng. Nếu chủ nhà Đông mệnh còn khá một ít, bằng chủ nhà Tây mệnh càng suy vi.

- Ở Tây tứ trạch mà dùng Đông trù là cái nhà bất lợi, không thịnh vượng được. Nếu chủ nhà thuộc Tây mệnh còn có thể đỡ một chút, bằng Đông mệnh càng suy vi.

- Cửa cái thuộc Đông tứ cung mà Chủ phòng hay Sơn chủ thuộc Tây tứ cung là cái nhà Đông Tây hỗn loạn, bất phát. Nếu dùng Đông trù có thể đủ ăn, bằng dùng Tây trù là suy sụp. Nếu dùng Tây trù mà chủ là tây mệnh nữa thì cùng khổ cực điểm.

- Cửa cái thuộc Tây tứ cung mà chủ phòng hay Sơn chủ thuộc Đông tứ cung là cái nhà Đông Tây hỗn loạn, chẳng phát lên được. Nếu dùng Tây trù còn có thể đủ ăn, bằng dùng Đông trù ắt suy sụp. Đã dùng Đông trù mà chủ nhà Đông mệnh nữa thì cùng khổ cực điểm.


BÀI 3: BẢY CHỖ QUAN HỆ VỚI NHÀ


- Một ngôi nhà có 7 chỗ quan hệ tức là có ảnh hưởng tốt xấu: Cửa - ngõ, Cửa - cái, Cửa - phòng, Cửa - bếp, Chủ - phòng hay Sơn - chủ, Bếp và Hướng - bếp. Sở dĩ nói Chủ - phòng hay Sơn - chủ bởi ở Tịnh - trạch dùng Chủ - phòng làm chỗ chủ yếu, còn ở Động - trạch và Biến - Hoá - trạch dùng Sơn - chủ làm chỗ chủ yếu. (Chú ý: tên các chỗ quan hệ luôn luôn có gạch nối.)

- Trong 7 chỗ quan hệ có 3 chỗ chính yếu ảnh hưởng trọng đại để quyết định ngôi nhà tốt hay xấu. Còn 4 chỗ kia thuộc hàng thứ yếu (phụ thuộc), ảnh hưởng bình thường, chỉ có thể thêm bớt tốt xấu mà thôi.

- Ở Tịnh - trạch, có 3 chỗ chính yếu là Cửa - cái, Chủ – phòng và Bếp. Còn 4 chỗ thứ yếu là Cửa - phòng, Cửa - bếp, Hướng - bếp và Cửa - ngõ.
- Ở Động - trạch và Biến - hoá - trạch, 3 chỗ chính yếu là Cửa - cái, Sơn - chủ và Bếp. Còn 4 chỗ thứ yếu cũng như ở Tịnh - trạch là: Cửa - phòng, Cửa - bếp, Hướng bếp và Cửa - ngõ.

SỰ SAI BIỆT TRONG BA CHỖ CHÍNH YẾU

- Ở Tịnh - trạch dùng Chủ - phòng chỉ thừa một du - niên mà thôi và lấy tên du - niên này mà đặt tên cho nhà, như Sinh - khí - trạch hay Thiên - y - trạch chẳng hạn. Còn ở Động - trạch và biến - hoá - trạch thì dùng một Sơn - chủ đã thừa một du - niên lại còn thêm ảnh hưởng với một “Sao - chúa” rất trọng hệ nữa, vậy lấy tên du – niên và cả Sao – chúa để đặt tên cho nhà, như Diên – niên – trạch, như Tham – lang – trạch, Vũ – khúc – trạch chẳng hạn.

- Cửa cái là một nơi chính yếu, vì nó là lối đi vào nhà, nếu dựng trúng tại cung tốt tức như người đi trúng vào chốn may mắn, bằng dựng tại cung xấu tức như người đi vào chốn nguy hiểm, tối – tăm, chông gai. Cửa – cái là mẹ sanh ra các du – niên cho chủ – phòng, cho Sơn – chủ và cho Bếp. Vì vậy, nên hễ Chủ – phòng, Sơn – chủ và bếp thừa du – niên tốt tức Cửa – cái tốt, vì mẹ tốt mới sanh ra các con tốt, bằng thừa du – niên xấu tức Cửa – cái xấu, vì mẹ xấu mới sanh con xấu.

- Chủ – phòng hay Sơn – chủ đều là những nơi chính yếu, trụ cột, chủ yếu, làm chủ toàn thể ngôi nhà cho nên gọi là Chủ – phòng, là Sơn – chủ . Nếu có được ở nhằm cung tốt và thừa du – niên tốt hay Sao tốt là nhà ở thịnh vượng và yên lành. Bằng ở nhằm cung xấu và thừa du – niên xấu hay sao xấu là nhà ở suy vi, chẳng yên.

- Bếp là chỗ chính yếu vì nơi sinh dưỡng, nuôi sống con người, nếu được an trí nơi cung tốt và thừa du – niên tốt thì sự sinh dưỡng mới đặng lợi ích, ít bệnh hoạn. Bằng an trí tại cung xấu và thừa du – niên xấu khác nào sự sinh dưỡng bị đầu độc gây ra đủ các bệnh chứng cả tai hoạ. Trăm bệnh đa số do nơi ăn uống sinh ra.

TÓM LẠI: Ba chỗ chính yếu được đặt vào 3 cung tốt là đối với nhau được tương sinh hay tỵ hoà và 3 cung đều thừa kiết du – niên hay kiết – tinh thì quyết định một ngôi nhà thịnh vượng. Bằng trái lại đặt trúng vào 3 cung xấu là đối với nhau tương khắc và đồng thừa du – niên hay hung tinh thì quyết định ngôi nhà suy bại.
Nhan đề quyển sách có hai chữ Tam – yếu đó là 3 chỗ chính yếu nói trong bài vậy.


SỰ SAI BIỆT TRONG 4 CHỖ THỨ YẾU


- Trong 4 chỗ thứ yếu thì Hướng – bếp có tầm quan trọng hơn cả, kế đó là Cửa – phòng và Cửa – bếp, sau hết là Cửa – ngõ. Người xưa không kể tới Cửa – ngõ, có lẽ vì nó không thuộc về ngôi nhà.

- Cửa – phòng và Cửa – bếp ở Tịnh – trạch ít quan trọng, còn ở Động – trạch và Biến – hoá – trạch được quan trọng nhiều hơn. Đó là bởi ở Tịnh – trạch thì Chủ – phòng và Bếp bị lệ thuộc, tất cả các cửa của nó cũng bị lệ thuộc, còn ở Động – trạch và Biến – hoá – trạch thì Phòng – chúa và Bếp chiếm riêng một ngăn nhà độc lập, tức nó có tầm quan trọng hơn trong hàng thứ yếu.


ĐO LƯỜNG TỐT XẤU CHO 7 CHỖ

- Cái việc đo lường tốt xấu không lấy đâu là quyết định cho đúng từng phân ly như việc trắc lượng bằng toán pháp, nhưng đại khái cũng có thể phân biệt chỗ khinh chỗ trọng, nhiên – hậu mới giảo định được một cái nhà thịnh hay suy, thịnh suy nhiều hay ít. Vả lại còn sự phân lượng tốt xấu cho chỗ chính yếu thì khác, cho những chỗ thứ yếu thì khác. Những chỗ chính yếu và thứ yếu của loại trạch này với loại trạch kia cũng lại không hoàn toàn bằng nhau. Vậy tạm định như sau:

- Ở Tịnh – trạch có 3 chỗ chính yếu là Cửa – cái, Chủ – phòng và Bếp. Còn 4 chỗ phụ thuộc kia là Hướng – bếp, Cửa – bếp, Cửa – phòng và Cửa – ngõ.

- Động – trạch và Biến – hoá – trạch cũng có 3 chỗ chính yếu là Cửa – cái, Sơn – chủ và Bếp. Lại phải kể Phòng – chúa có Sao – chúa là chỗ thiết yếu nhất hạng. Còn 4 chỗ phụ thuộc kia, cũng như ở Tịnh – trạch, ảnh hưởng tam thường.

- Mỗi chỗ chính yếu trọn tốt thì được 30% tốt, trung bình thì được 15% tốt, bằng trọn xấu thì 30% xấu.

- Mỗi chỗ phụ thuộc trọn tốt thì được 10% tốt, trung bình thì được 5% tốt, bằng trọn xấu thì định 10% xấu.

Ba hạng: trọn tốt, trung bình và trọn xấu là như vầy:

* Trọn tốt: là chỗ gặp kiết du –niên hay kiết – tinh mà phải đắc vị hay đăng – diện. Có 3 kiết du – niên là Sinh – khí, Diên – niên và Thiên – y (Phục – vị cũng được gọi là kiết du – niên, nhưng chỉ tốt bằng phân nửa). Có 3 kiết tinh là Tham – lang, Vũ – khúc và Cự – môn (Phụ Bật cũng là kiết tinh nhưng chỉ tốt bằng phân nửa). Trọn tốt là được 30% tốt. Riêng Phục – vị và Phụ Bật trọn tốt là 15%.

* Trung bình: là chỗ gặp kiết du – niên hay kiết – tinh nhưng thất vị, được 15% tốt. Riêng Phục – vị và Phụ Bật chỉ được trên dưới 5% tốt.

*Trọn xấu: Là chỗ gặp hung du – niên như Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Lục sát và Hoạ hại. Hoặc gặp hung tinh như Phá quân, Liêm trinh, Văn khúc và Lộc tồn. Phàm hung du – niên hay hung tinh cũng vậy, thì kể là trọn xấu 30%, dù đắc vị hay đăng diện cũng vậy.

- Phàm kiết du – nên hay kiết tinh cũng vậy, đối với nó gặp cung tương khắc là thất vị. Gặp cung tương sanh là đắc vị, gặp cung tỵ hoà (đồng loại) là đăng – diện tốt bậc nhất, đắc vị tốt bậc nhì, thất vị tốt bậc ba. Đắc vị mà có sanh cung tốt hơn cung sanh nó.

- Riêng kiết tinh đắc vị hay đăng diện mà được ở tại ngăn chót tức ngăn cuối cùng gọi là nhập miếu, không có cách nào tốt hơn nó được. Tính sẵn như sau:

* Sinh khí và Phục vị thuộc Mộc: gặp các cung Kiền Đoài Cấn Khôn là thất vị, gặp các cung Khảm Ly là đắc vị, gặp các cung Chấn Tốn là đăng diện.

* Thiên y thuộc Thổ: Gặp các cung Chấn Tốn Khảm là thất vị, gặp các cung Ly Đoài Kiền là đắc vị, gặp các cung Cấn Khôn là đăng diện.

* Diên niên thuộc Kim: gặp các cung Ly Chấn Tốn là thất vị, gặp các cung Cấn Khôn Khảm là đắc vị, gặp các cung Kiền Đào là đăng diện.

* Tham lang và Phụ Bật thuộc Mộc: gặp các Sơn – chủ Kiền Đoài Cấn Khôn là thất vị, gặp các Sơn – chủ Khảm Ly là đắc vị, gặp các Sơn – chủ Chấn Tốn là đăng diện.

* Cự môn thuộc Thổ: gặp các sơn – chủ Chấn Tốn Khảm là thất vị, gặp các sơn – chủ Ly Kiền Đoài là đắc vị, gặp các sơn – chủ Cấn Khôn là đăng diện.

* Vũ khúc thuộc Kim: gặp các sơn – chủ Ly Chấn Tốn là thất vị, gặp các Sơn – chủ Cấn Khôn Khảm là đắc vị, gặp các sơn – chủ Kiền Đoài là đăng diện.

(Chú ý: Những kiết du – niên so đối với cung sở – thừa của nó mà tính. Còn những kiết tinh so đối với sơn – chủ mà tính.


VƯỢNG TRẠCH CÁCH VÀ SANH TRẠCH CÁCH

- Vượng trạch: phàm kiết tinh hay kiết du – niên đồng một loại với trạch là cách rất tốt, thêm sự thịnh vượng cho nhà. Như Đông – tứ – trạch (thuộc Mộc) mà dùng Tham lang Mộc tinh làm Sao – chúa, hoặc Chủ – phòng hay Sơn – chủ thừa sinh khí Mộc. Như Tây – tứ – trạch (thuộc Kim) mà dùng Vũ khúc Kim tinh làm Sao chúa hoặc Chủ – phòng hay Sơn – chủ thừa Diên – niên Kim.

- Sanh – trạch: Phàm kiết tinh hay kiết du – niên sanh trạch là cách tốt, thêm sự phát đạt cho nhà. Như tây – tứ – trạch (thuộc Kim) mà dùng Cự môn Thổ tinh làm Sao – chúa, hoặc Chủ – phòng hay Sơn – chủ thừa Thiên – y Thổ.

Phàm được hai cách trên (Vượng – trạch hay Sanh – trạch) mà kiết tinh hay kiết du – niên lại đăng diện hay đắc vị thì sự thịnh vượng, sự phát đạt càng mạnh càng lâu bền.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét